Chúng ta có thể nhận được gì từ chùm vệ tinh định vị COMPASS hiện tại ? (Phần 4)

Image Content

GPS World 1/11/2012

Các tác giả Maorong Ge, Hongping Zhang, Xiaolin Jia, Shuli Song, và Jens Wickert

Dịch và biên soạn: Nhóm kỹ thuật – Công ty TNHH ANTHI Việt Nam

 



Hình 5. Chuỗi thời gian những khác biệt quỹ đạo của vệ tinh C05 và C06 ngày 124 năm 2012. Hằng số độ dịch chuyển lớn nhất thuộc về hợp phần dò tìm theo chiều dọc, đặc biệt đối với vệ tinh GEO C05.

ĐỒNG HỒ VỆ TINH

Hình 6 thể hiện kết quả so sánh các đồng hồ vệ tinh lấy từ hai giới hạn ngoài của những lời giải ba ngày, cũng như phương pháp đã áp dụng để tính toán các quỹ đạo vệ tinh. Vệ tinh C10 được lựa chọn làm vệ tinh tham chiếu nhằm mục đích loại bỏ các epoch có dịch chuyển mang tính hệ thống. Trị số RMS trung bình nằm trong khoảng 0.56 ns (17 cm) và độ lệch chuẩn trung bình STD nằm trong khoảng 0.23 ns (7 cm). Vệ tinh C01 có giá trị dịch chuyển lớn hơn so với bất kỳ vệ tinh nào khác, điều này có thể liên quan tới các quỹ đạo của vệ tinh này.

Từ việc so sánh đồng hồ và quỹ đạo vệ tinh, cả hai yếu tố đồng hồ và quỹ đạo khó có thể đáp ứng yêu cầu đạt được độ chính xác PPP ở mức cm. Tuy nhiên, những dịch chuyển trong đồng hồ và quỹ đạo thường có khả năng bù lẫn nhau trong mô hình quan trắc. Hơn thế nữa hằng số dịch chuyển hợp phần dò tìm theo chiều dọc tạo ra hầu hết hằng số dịch chuyển trong các mô hình quan trắc bởi sự thay đổi rất ít trong mô hình hình học các vệ tinh GEOs. Hằng số dịch chuyển này sẽ không ảnh hưởng tới các phép đo pha bởi khả năng ước lượng các tham số không rõ ràng (Ambiguity Parameters). Ảnh hưởng của nó có thể giảm đi được bằng cách hạ thấp trọng số một cách phù hợp. Theo đó, thay vì so sánh đồng hồ và quỹ đạo vệ tinh tách biệt, trong phạm vi người sử dụng độ chính xác có thể xác định được như thông thường vẫn làm. Trong nghiên cứu này, chất lượng của phép ước lượng đồng hồ và quỹ đạo vệ tinh được đánh giá bằng khả năng lặp lại các toạ độ của trạm đặt máy thu được từ PPP sử dụng chính những sản phẩm này.

ĐỊNH VỊ ĐIỂM CHÍNH XÁC

Với những ước lượng về các quỹ đạo và đồng hồ vệ tinh này, PPP trong chế độ đo tĩnh và đo động được áp dụng cho các trạm máy của người sử dụng không liên quan tới việc ước lượng quỹ đạo và đồng hồ vệ tinh, để thể hiện độ chính xác dịch vụ PPP cho các vệ tinh Compass.


Hình 6. Số liệu thống kê những khác biệt chồng lấn trong ước lượng đồng hồ máy thu và vệ tinh. Vệ tinh C10 được lựa chọn làm tham chiếu đồng hồ.

Trong xử lý PPP, pha và khoảng cách tầng điện ly tự do được sử dụng với trọng số phù hợp. Các quỹ đạo và đồng hồ vệ tinh là cố định đối với các phép ước lượng đã đề cập trong phần trên. Đồng hồ máy thu được ước lượng qua các epoch, độ trễ tầng đối lưu sau mô hình hiệu chỉnh priori được tham số hoá với việc xử lý ngẫu nhiên. Những trị không rõ ràng pha sóng mang (Carrier Phase Ambiguities) được ước lượng nhưng không cố định vào trị số nguyên (Integer). Các toạ độ của trạm máy đo cũng được ước lượng dựa vào chế độ định vị: Như việc xác định các tham số phục vụ cho chế độ đo tính hoặc xác định các tham số độc lập cho epoch phục vụ cho chế độ đo động.

Số liệu từ ngày 123 đến ngày 135 tại trạm CHDU đặt tại Chengdu, không tham gia vào việc tính toán xác định quỹ đạo và đồng hồ, trạm này được lựa chọn dưới dạng trạm đo của người sử dụng trong quá trình xử lý PPP. Việc ước lượng các toạ độ trạm đo và ZTD được so sánh với những giá trị ước lượng tương đương bằng số liệu GPS, một cách tách biệt.

PPP Tĩnh. Trong phần thử nghiệm tĩnh, PPP được thực hiện với ca đo có độ dài khác nhau 2 giờ, 6 giờ, 12 giờ, và 24 giờ. Hình 7 và Bảng 4 thể hiện những số liệu thống kê những khác biệt về vị trí trong các lời giải tĩnh với nhiều ca đo có độ dài khác nhau từ ngày 123 đến ngày 125.

Độ chính xác của vị trí PPP tạo ra với tập hợp số liệu đo 2 giờ đạt khoảng 5 cm, 3 cm, và 10 cm theo hướng đông, bắc, và thẳng đứng, so sánh với lời giải ngày của số liệu GPS. Độ chính xác PPP được cải thiện một cách đáng kể theo thời gian của mỗi ca đo. Nếu số liệu đo kéo dài 6 giờ hoặc lâu hơn nữa, sau khi thực hiện bước xử lý, độ chính xác vị trí đạt khoảng 1 cm theo hướng đông và bắc, 4 cm theo phương thẳng đứng. Từ Bảng 4, độ chính xác được cải thiện và đạt đến vài milimét theo phương ngang và 2 cm theo chiều thẳng đứng với các tập hợp số liệu đo kéo dài từ 12 đến 24 giờ. Giá trị RMS lớn hơn theo phương thẳng đứng có thể có nguyên nhân đến từ những khác biệt PCO và PCV của ăng ten máy thu đối với số liệu GPS và Compass, đây lại là những thông số chưa có để đưa vào các phép tính toán.

(Còn tiếp). 

Khi cần thêm thông tin chi tiết, Quý vị có thể liên hệ với chúng tôi qua địa chỉ thư điện tử: info@anthi.com.vn 

Xin chân thành cảm ơn!